Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo
Sấm Giảng Giáo Lý
o0o
(văn lục bát, dài 912 câu, xuất-bản lần đầu năm 1939)
Ngài viết xong trước Đệ-Nhị Thế-Chiến, tại làng Hòa-Hảo, Sấm Giảng nầy khởi đầu bằng câu:
Hạ-Nguơn nay đã hết đời,
và chấm dứt bởi câu:
Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên.
Nội-dung, Ðức Giáo-Chủ đánh thức quần-chúng bằng cách tiên-tri những cảnh lầm-than khốn-khổ mà nhân-loại sẽ phải trải qua trong thời-đại nhiễu-nhương. Chẳng hạn, Ngài nói trước các năm từ lúc xảy ra cho đến khi chấm dứt đệ-nhị thế-chiến:
Mèo kêu bá-tánh lao-xao,
Ðến chừng Rồng, Rắn máu đào chỉn ghê.
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo-xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng.
Người ta đã thấy đúng trăm phần trăm từ khởi đầu cuộc chiến-tranh thế-giới lần thứ hai (Mèo kêu, 1939) cho đến khi hai quả bom nguyên-tử của Ðồng-Minh bỏ xuống nước Nhựt để chấm dứt chiến cuộc (Gà gáy, 1945), không sai một mảy.
Cuộc giết chóc ghê tởm của chiến-tranh tuy ngưng từ năm Gà, nhưng theo Ðức Giáo-Chủ, nó sẽ còn tái diễn tại Việt-Nam, và sẽ lan-diễn khắp nơi:
Ðời cùng còn chẳng mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia!
Trong tác-phẩm nầy, Ðức Giáo-Chủ cũng tường-thuật việc Ngài hóa-hiện ra đui cùi, buôn bán, khi già, lúc trẻ dạo khắp “lục châu” để thử lòng trăm họ, giác tỉnh mọi người, gọi họ theo về đường ngay, nẻo Ðạo.
(văn thất ngôn trường thiên, dài 476 câu, xuất-bản lần đầu năm 1939)
Ngài viết tại làng Hòa-Hảo ngày 12 tháng 9 năm Kỷ-Mão. Kệ nầy khởi đầu bằng câu:
Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
và chấm dứt bởi câu:
Ta ra sức dắt dìu bá tánh.
Cũng như trong quyển thứ nhứt, ở đây Ðức Giáo-Chủ vừa tiên-tri tai nàn sắp xảy đến cho nhân dân, vừa khuyên mọi người làm lành lánh dữ:
Chẳng hạn như:
Ðến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn-cầu thiết-thiết tha-tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ ma-ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.
. . .
Trung với hiếu ta nên trau trỉa,
Hiền với lương bổn đạo rèn lòng.
Thường nguyện cầu siêu-độ Tổ-Tông,
Với bá tánh vạn dân vô sự.
Rồi Ngài không ngần-ngại, đánh đổ những mê-tín dị-đoan, những âm-thanh sắc tướng, những sự dối tu, lòe đời:
Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ,
Mà xưa nay có mấy ai thành!
. . .
Làm hiền-lành hơn tụng hơ-hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó ré.
. . .
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
. . .
Tu vô-vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng sanh lo-lót.
(văn lục bát, dài 612 câu, xuất bản lần đầu năm 1939)
Ngài cũng viết tại làng Hòa-Hảo năm Kỷ-Mão, khởi đầu bằng câu:
Ngồi trên đảnh núi liên-đài,
và chấm dứt bởi câu:
Chúc cho bá-tánh muôn sầu tiêu tan.
Trong quyển nầy, Ðức Giáo-Chủ dạy tu nhân-đạo, Ngài viết:
Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi,
Quốc-vương thủy thổ chiều mơi phản hồi.
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
Ðối với hạng thanh-niên nam nữ, thường dễ bị văn-minh vật-chất hoặc dục-vọng lôi cuốn đến bờ trụy lạc, Ngài kêu gọi:
Nghiêm-đường chịu lịnh cho an,
Loạn luân cang kỷ hổ mang tiếng đời.
Hoặc là:
Nghe lời cha mẹ cân-phân.
Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy.
Và Ngài cũng cực-lực đả-phá những hủ-tục, bài xích những thói xa-hoa, đàng-điếm. Chẳng hạn:
Chết rồi cũng bớt cóc keng,
Trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì!
Ðàn nhu thầy lễ cũng kỳ,
Mắc phải chuyện gì phủ-phục bình hưng?
Hay là:
Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.
Nếu chịu vẹn gìn theo lời chỉ giáo trong quyển SÁM GIẢNG nầy, thì nhân đạo của ta ắt có thể coi là hoàn-bị lắm.
(văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, xuất-bản lần đầu năm 1939)
Ðức Giáo-Chủ viết tại Hòa-Hảo ngày 20 tháng 9 năm Kỷ-Mão. Kệ nầy khởi đầu bằng câu:
Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện,
và chấm dứt bởi câu:
Mong bá-tánh vạn dân giải-thoát.
Nơi đây, Ðức Giáo-Chủ có nói trước những tai-họa hãi-hùng mà chúng sanh sẽ phải trải qua trong thời Hạ-nguơn mạt kiếp:
Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ ngày sau dòm thấy bay hồn.
Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu núi xương tha-thiết.
Ngài lại còn giảng rõ thế nào là tứ đổ tường, tứ khổ, ngũ uẩn, lục căn, lục trần, tứ diệu đề, bát chánh và bát nhẫn.
Còn gì đáng coi là nhẫn-nhục, hỷ-xả hơn những câu sau đây:
Ai chưởi mắng thì ta giả điếc,
Ðợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán.
(đoạn đầu và đoạn chót viết bằng lối văn lục bát, đoạn giữa viết bằng lối thất ngôn, gồm 756 câu, xuất bản lần đầu năm 1942)
Ngài viết tại nhà thương Chợ Quán năm 1941. Tác-phẩm nầy khởi đầu bằng câu:
Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,
và chấm dứt bởi câu:
Rán trau đức-hạnh ngày sau sẽ tường.
Nội-dung, Ðức Giáo-Chủ nhắc tiểu-sử Ðức Thích-Ca và luận giải về tám sự khổ trong cõi Ta-bà, về pháp môn tịnh độ, về cách diệt ngũ-trược, trừ thập ác và hành thập thiện.
(viết bằng văn xuôi, hồi tháng 5 dl 1945 tại Sàigòn và xuất-bản lần đầu cũng trong năm ấy)
Tuy văn xuôi, quyển nầy có một đặc-sắc là giản-dị và lưu loát, âm-hưởng du-dương, nhịp-nhàng.
Nơi đây, Ðức Giáo-Chủ minh-giải về tứ ân, tam-nghiệp, thập-ác và bát-chánh. Ngài còn giảng dạy về cách thờ-phượng, cúng lạy, nghi-thức cử-hành tang-lễ, giá-thú, cách đối xử với các tôn-giáo bạn, với các tăng-sư, v.v…
Thi Văn Giáo Lý
o0o
1.Năm Kỷ-Mão (1939)
2.Năm Canh-Thìn (1940)
3.Năm Tân-Tỵ (1941)
4.Năm Nhâm-Ngũ (1942)
5.Năm Quí-Mùi (1943)
6.Năm Giáp-Thân (1944)
7.Năm Ất-Dậu (1945)
8.Năm Bính-Tuất (1946)
9.Năm Đinh-Hợi (1947)
10.Phụ-Lục
*ĐĂNG KÝ THỈNH "SẤM GIẢNG - THI VĂN GIÁO LÝ" >>> click vào đây
2.Năm Canh-Thìn (1940)
3.Năm Tân-Tỵ (1941)
4.Năm Nhâm-Ngũ (1942)
5.Năm Quí-Mùi (1943)
6.Năm Giáp-Thân (1944)
7.Năm Ất-Dậu (1945)
8.Năm Bính-Tuất (1946)
9.Năm Đinh-Hợi (1947)
10.Phụ-Lục
*ĐĂNG KÝ THỈNH "SẤM GIẢNG - THI VĂN GIÁO LÝ" >>> click vào đây